Trên thực tế vẫn có nhiều trường hợp quyền sử dụng đất do cá nhân, sử dụng hoặc đất của vợ chồng do sơ xuất trong quá trình thực hiện thủ tục cấp, in Giấy chứng nhận nên bị ghi nhầm thành đất “hộ gia đình”.
Như câu chuyện của Chị Hà dưới đây:
Chị tự bỏ tiền mua riêng một mảnh đất, không nhớ đã khai thông tin ra sao nhưng khi nhận sổ đỏ mới phát hiện phần chủ sở hữu ghi là “hộ gia đình”.
Chi lo ngại sẽ mất quyền lợi với mảnh đất, khi xảy ra tranh chấp hoặc muốn mua bán phải có sự đồng thuận của tất cả người cùng hộ khẩu trong nhà, dù thực tế họ không đóng góp, không thỏa mãn điều kiện theo quy định nhưng vẫn có quyền sử dụng đất chung với người khác.
Một trường hợp khác: Đất do cá nhân nhân chuyển nhượng nhưng ghi ra sổ thì ghi là hộ gia đình hoặc đất là tài sản chung của vợ chồng hoặc đất do được nhận tặng cho, thừa kế trước riêng nhưng sổ được cấp ghi là hộ gia đình.
Theo điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013, khi “cấp nhầm” thành hộ gia đình sử dụng đất được xem là trường hợp Giấy chứng nhận đã cấp không đúng đối tượng sử dụng đất. Theo quy định cơ quan có thẩm quyền cấp sẽ thu hồi và cấp lại Giấy chứng nhận mới.
Ảnh minh hoạ: Internet
Căn cứ khoản 26 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP, tùy thuộc vào người phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật mà có quy định thu hồi riêng đối với từng trường hợp, cụ thể:
(1) Cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định
Trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét:
– Nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp.
– Nếu xác định Giấy chứng nhận đã cấp là đúng quy định thì phải thông báo lại cho cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra.
(2) Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận tự phát hiện
Trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi Giấy chứng nhận.
(3) Người sử dụng đất phát hiện
Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận có trách nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi Giấy chứng nhận.
(4) Trường hợp Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai có bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, trong đó có kết luận về việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp thì việc thu hồi Giấy chứng nhận được thực hiện theo bản án, quyết định đó.
Như thông tin chị Hà nêu, việc nhận chuyển nhượng thửa đất từ khoản tiền riêng của chị không liên quan đến hộ gia đình. Khi ký kết Hợp đồng chuyển nhượng 1uyền sử dụng đất, chỉ có một mình chị Hà tham gia.
Như vậy, để giải quyết nhầm lẫn trên, luật sư khuyên chị Hà có thể làm đơn đến Văn phòng đăng ký đất đai nơi chị đăng ký làm thủ tục sang tên trước bạ, đề nghị đính chính lại.
Nội dung đính chính là tên người sử dụng đất trên Giấy chứng nhận, từ “Hộ gia đình” sang thành tên cá nhân chị, cho đúng với Hợp đồng chuyển nhượng chị ký kết có trong hồ sơ khi đăng ký sang tên.